1. Các ứng dụng của tinh giới tính, ưu và nhược điểm
Các ứng dụng chính của tinh giới tính trong chăn nuôi bò sữa:
– Tăng tỷ lệ bê cái sinh ra, vì vậy giúp tăng đàn bò cái tơ hậu bị để thay đàn.
– Tăng hiệu quả chọn lọc trong đàn bò cái tơ hậu bị.
– Tăng nhanh tỷ lệ bò cái sinh sản trong tổng đàn bò sữa.
– Tăng hiệu quả kinh tế trong toàn trại bò sữa nhờ tăng đàn cái sinh sản, cái vắt sữa.
– Cải thiện nhanh khả năng sản xuất ở thế hệ sau. Khi kết hợp sử dụng
tinh giới tính với các công nghệ sinh sản như: sản xuất phôi in vitro và
in vivo và cấy truyền phôi sẽ giúp tăng nhanh đàn bò cái có khả năng
sản xuất (sinh sản và sản xuất sữa) cao ở thế hệ sau.
Công nghệ này có các nhược điểm là:
+ Chi phí cao vì giá bán của tinh giới tính cao hơn nhiều so với tinh bình thường.
+ Kỹ thuật khá phức tạp: kỹ thuật sản xuất tinh giới tính phức tạp đòi
hỏi phải có hệ thống Phân tách tế bào (Flow Cytometry) và quy trình phân
tách chuẩn. Đồng thời kỹ thuật sử dụng tinh giới tính trong gieo tinh
nhân tạo cũng phức tạp hơn khi đòi hỏi gieo tinh sâu hơn.
+ Tỷ lệ thụ thai thấp hơn so với tinh trùng chưa phân tách. Sử dụng
tinh dịch đã phân tách tinh trùng có nhược điểm là tỷ lệ thụ thai thấp
hơn, chủ yếu do chất lượng tinh trùng bị giảm thấp khi phân tách và do
nồng độ tinh trùng thấp trong 1 liều tinh. Tuy nhiên, khi nâng số lượng
tinh trùng (đã phân tách X và Y) trong 1 liều tinh dịch ngang bằng với
loại tinh không phân tách thì tỷ lệ thụ thai đã được cải thiện đáng kể
(khoảng 60-80% so với sử dụng tinh dịch không phân tách) (Seidel, 1999;
Doyle và cs, 1999).
+ Được khuyến cáo chỉ sử dụng tinh giới tính trên bò tơ.
2. Hiện trạng sử dụng phân biệt tinh giới tính
Tinh trùng bò đã tách giới tính bằng
công nghệ Flow cytometry đã được thương mại hóa ở các nước như Mỹ,
Canada và có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây, đặc biệt là ở
châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc. Ứng dụng chính của tinh trùng bò phân
tách giới tính là tăng sản xuất bê cái trong ngành chăn nuôi bò sữa,
cũng như tăng sản xuất bê đực trong ngành chăn nuôi bò thịt. Để sử dụng
thành công tinh trùng tách giới tính đòi hỏi phải có kinh nghiệm trong
nuôi gia súc, thao tác đối với tinh trùng phải cẩn thận và kỹ thuật thụ
tinh lành nghề. Công nghệ Flow cytometry đang ngày càng được hoàn thiện
để tách tinh trùng với hiệu quả cao hơn và ít ảnh hưởng tới chất lượng
tinh trùng, cùng với chi phí giảm sẽ được ứng dụng rất nhiều trong ngành
chăn nuôi.
3. Kết quả bước đầu sử dụng tinh giới tính trong việc tạo phôi cái và bê cái hướng sữa ở phía Nam
Phòng Công nghệ sinh học, Viện KHKT Nông
nghiệp miền Nam và Phòng TN Tế bào gốc, ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM, đã
nghiên cứu nhằm thử nghiệm một số phương pháp mới như kỹ thuật hút trứng
trên buồng trứng bò sống (OPU), phân tách tinh trùng để tạo phôi bò
invitro xác định trước giới tính và thử nghiệm tạo ra phôi bò, bê cái
giống hướng sữa có tiềm năng sản xuất cao để cung cấp thêm kỹ thuật sản
xuất giống bò, góp phần xây dựng đàn bò giống của các trung tâm sản xuất
giống bò sữa tại TPHCM. Đề tài thực hiện trong 3 năm (2012-2015) và đạt
một số kết quả sau:
(1) Thử nghiệm và hoàn
thành quy trình kỹ thuật hút trứng trên buồng trứng bò cái sống (OPU) và
cung cấp nguồn trứng cho thụ tinh in vitro. Trong điều kiện tay nghề
chưa cao và đối tượng bò chưa phù hợp, nên thực hiện OPU với tần suất 1
lần/2 tuần, có thể kết hợp với sử dụng kích dục tố HTNC hay FSH để nâng
cao hiệu quả thực hiện OPU. Nhìn chung hiệu suất thực hiện OPU mới đạt
khoảng 50% với số trứng hút được trung bình trên buồng trứng là 1,63.
(2) Thử nghiệm và thiết
lập các thông số cơ bản của quy trình phân tách tinh trùng X từ tinh
trùng bò đông lạnh. Chế độ phân tách với các thông số: điện thế là 14.53
V, tần số hạt là 31,20 kHz, áp suất dòng chảy là 15,0 psi và phương
pháp phân tách: sử dụng phương pháp tách từng giọt đơn với tín hiệu
dương tính nhằm làm giàu số tế bào được (1.0 Drop Enrich) hoặc phương
pháp tách những tế bào dương tính (1.0 Drop Yield) cho hiệu quả tốt nhất
với hiệu quả phân tách 72,34-77,16% và độ thuần khiết từ 77,74-81,44%.
Tuy nhiên, chất lượng tinh trùng thấp về cả chỉ tiêu phần trăm tế bào
sống (35,65-44,96%), tỷ lệ di động (18,98-28,26%) trong khi đó tỷ lệ kỳ
hình của tinh trùng lại cao (77,83-78,16%).
(3) Tạo được phôi in
vitro từ nguồn trứng OPU và tinh phân tách ngoại nhập. Mặc dù, số lượng
trứng thu được trên một buồng trứng bằng kỹ thuật OPU thấp hơn so với
buồng trứng lấy từ lò mổ (1,63 so với 9,76), nhưng chất lượng tốt hơn
nên tỷ lệ thụ tinh và tạo phôi dâu, phôi nang đều cao hơn (56,19% và
33,90% so với 25,22% và 8,29%). Do chất lượng tinh phân tách của đề tài
này còn thấp nên vẫn chưa tạo được phôi in vitro.
(4) Thực hiện 27 lượt
cấy truyền phôi in vitro (trứng OPU và tinh phân tách ngoại nhập) trên
bò rạ, kết quả đã có 2 bê cái, nhưng tỷ lệ thụ thai còn khá thấp, chỉ
đạt 7,5%.
(5) Xây dựng 2 quy trình OPU và phân tách tinh bò đông lạnh bằng FACS.
4. Các lưu ý khi sử dụng tinh giới tính trong chương trình giống bò
– So với loại tinh bình thường (có cả 2
tinh trùng X và Y), tinh giới tính không giúp cải thiện năng suất sữa ở
thế hệ sau (khi sử dụng tinh của cùng một con bò đực). Vì vậy, không nên
lầm tưởng rằng bê cái sinh ra từ tinh giới tính sẽ có năng suất sữa cao
hơn bê cái sinh ra từ tinh bình thường.
– Bằng phương pháp gieo tinh nhân tạo
hiện nay, tinh bò đực chỉ đóng góp 50% trong bộ nhiễm sắc thể của đời
con, hay đơn giản là tinh bò đực chỉ có tác động 50% lên đời con. Muốn
nhanh chóng cải thiện năng suất sữa đời con, cần phải sử dụng tinh bò
đực cao sản trên những bò cái cao sản. Phương pháp hữu hiệu để nhân
nhanh tiềm năng di truyền của bò đực và bò cái cao sản là sử dụng tinh
giới tính (từ bò đực cao sản) kết hợp với trứng (của bò cái cao sản) để
tạo ra nhiều phôi bò cái cao sản, và từ đó sử dụng kỹ thuật cấy truyền
phôi để tạo ra đàn bê cái có tiềm năng sản xuất cao.
TS. Chung Anh Dũng
Nguồn: iasvn
|