Sinh viên y khoa đi học… thú y
PGS-TS Đinh Thị Bích Lân đẹp và có phần
trẻ so với tuổi 58. Ngắm, trò chuyện với chị một hồi, thấy hình như
người này sinh ra không phải để làm khoa học, nhưng không hiểu sao lại
gần như trọn đời gắn bó với hàng chục công trình khoa học lớn nhỏ? Chị
cười, đó là một cái duyên với nghề.
Chị vốn là sinh viên y khoa nhưng khi đi
Liên Xô chị lại được phân đi học chuyên ngành… thú y tại Học viện Thú y
Matxcơva. “Mình đã khóc rất nhiều vì không được học ngành y” – chị nhớ
lại.
Nhưng rồi nỗi buồn cũng nhanh chóng qua
đi khi ngay buổi lên lớp đầu tiên, chị được các giáo sư người Nga khai
sáng tư tưởng khi khẳng định: “Đi theo ngành thú y, các trò đừng nghĩ
rằng chỉ để chữa bệnh cho các loại động vật gia súc, mà các trò đang đi
theo một con đường rất cao quí, đó là tạo ra những sản phẩm an toàn,
chất lượng cho người tiêu dùng, qua đó bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng”.
Nỗi buồn của tôi đã nhanh chóng bị xóa mất, thay vào đó là niềm hân hoan
khi được bước sang một con đường mới”.
Đặc biệt sự tự tin và quyết tâm đã đến
với chị khi những lần đi thực tập ở nông thôn, khi chứng kiến cảnh nông
dân Nga đi chăn hàng nghìn con cừu trên thảo nguyên mênh mông bằng ô tô
và được hưởng thụ một cuộc sống đủ đầy. Điều này quá trái ngược với cảnh
“con trâu đi trước cái cày đi sau” ở Việt Nam mình.
“Và tôi hiểu, đó là sức mạnh của khoa
học và công nghệ. Chỉ có áp dụng thành quả khoa học công nghệ mới giúp
được kinh tế phát triển, người nông dân đỡ vất vả” – chị nói.
Suy nghĩ này theo suốt chị trong nhiều
năm sau đó khi làm nghiên cứu sinh ở Đại học Obihiro và Đại học Gifu,
những trường đại học nổi tiếng đào tạo về thú y của Nhật Bản.
“Mỗi khi tiếp cận với kỹ thuật, công
nghệ mới, tôi lại suy nghĩ, chắt lọc những gì có thể ứng dụng trong điều
kiện Việt Nam và mong sao sau khi tốt nghiệp trở về sớm có điều kiện để
áp dụng, phát huy những gì đã lĩnh hội được”.
PGS-TS Đinh Thị Bích Lân (ngoài cùng) trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Và sau khi trở về nước, công tác tại
khoa Chăn nuôi Thú y của Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế), việc làm
đầu tiên của PGS-TS Đinh Thị Bích Lân là cùng đồng nghiệp viết dự án để
xin kinh phí xây dựng phòng thí nghiệm, đồng thời tìm kiếm mọi nguồn
tài trợ để xây dựng cơ sở nghiên cứu thực hành.
“Bằng nguồn tài trợ ban đầu của tổ chức
Hopeland Nhật Bản, của những người bạn Nhật yêu Việt Nam, chúng tôi bắt
đầu xây dựng Trung tâm nghiên cứu ứng dụng triển khai Công nghệ Sinh
học, tiền thân của Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế ngày nay” – chị
kể.
Song song với việc xây dựng các cơ sở
phục vụ nghiên cứu, chị cùng chồng mình – anh Phùng Thăng Long và các
đồng nghiệp nghiên cứu cụm đề tài “Lai tạo và hoàn thiện qui trình công
nghệ sản xuất các tổ hợp lợn lai ¾ máu ngoại mới có năng suất và tỉ lệ
nạc cao”.
Và sau hơn 10 năm ròng rã, công trình đã
thành công, góp phần vào việc phát triển chăn nuôi lợn hướng nạc ở tỉnh
Thừa Thiên – Huế. Và cụm đề tài này được trao giải B, Giải thưởng Cố đô
về Khoa học Công nghệ tỉnh Thừa Thiên – Huế năm 2011.
Mình không làm thì ai làm?
Đến thời điểm này, sau hơn 15 năm nghiên
cứu, PGS-TS Đinh Thị Bích Lân đã hoàn thành 22 đề tài nghiên cứu khoa
học các cấp, trong đó có nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ với vai trò
là chủ nhiệm hoặc thành viên nghiên cứu. Chị có hàng chục bài báo đăng
trên các tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài và là tác giả của 2
giáo trình phục vụ đào tạo ngành thú y tại các trường đại học nông lâm
trên cả nước.
Nhiều công trình nghiên cứu của chị được
đánh giá cao bởi tính mới, tính ứng dụng và hiệu quả kinh tế – tính xã
hội mang lại cho cộng đồng. Có thể kể đến các công trình: Nghiên cứu sản
xuất que chẩn đoán nhanh bệnh ký sinh trùng Toxoplasma ở người và gia
súc”, “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh do Cryptosporidium parvum
gây ra ở bò lây sang người và xây dựng quy trình chẩn đoán nhanh”,
“Nghiên cứu tạo kháng nguyên bám dính tái tổ hợp để sản xuất KIT chẩn
đoán và vắc xin phòng bệnh do E.coli gây ra ở lợn”, “Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm sinh học để phòng và trị bệnh cầu
trùng ở gà”.
Chị nói: “Trong thú y, có 3 khâu quan
trọng là chẩn đoán, phòng bệnh và điều trị. Tôi đã chọn các vấn đề
nghiên cứu nằm trong 3 khâu này, mong sao tạo ra được những sản phẩm có
thể áp dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần tạo ra những sản phẩm sạch,
phục vụ cho cộng đồng”.
Thực tế thì ở nước mình, nghiên cứu khoa
học còn có nhiều khó khăn bởi cơ sở vật chất chưa đồng bộ, kinh phí
dành cho nghiên cứu còn hạn hẹp. Nhiều khi, vợ chồng chị phải bỏ tiền
túi ra để nghiên cứu. Và khi đã nghiên cứu thành công, sản phẩm có tính
thực tiễn cao thì việc đưa vào sử dụng cũng cần phải có nhiều thời gian
để hoàn thành các thủ tục hành chính.
“Đến thời điểm này, những sản phẩm
nghiên cứu của tôi vẫn đang ở trong quá trình thử nghiệm, chưa đưa được
ra thị trường bởi đang đợi Cục Thú y, Bộ NNPTNT khảo nghiệm trước khi
cấp giấy phép lưu hành để sản xuất đại trà. Tuy nhiên, việc khảo nghiệm
của Cục Thú y cũng đang gặp khó khăn bởi đây là sản phẩm công nghệ cao,
hiện chưa có trong danh mục của Bộ Tiêu chuẩn Việt Nam về lĩnh vực kháng
thể, nên… phải đợi cập nhật!” – chị nói.
Khi trò chuyện với chị, tôi đã hỏi vì
sao nghiên cứu khoa học gặp nhiều khó khăn như vậy mà chị vẫn còn theo
đuổi? Chị cười, nói rằng, chị làm vì đam mê và mong muốn tạo ra được sản
phẩm có ích cho xã hội”. Chị bảo, động cơ lớn nhất của mình là khát
khao làm điều gì đó có ích cho xã hội, cho nền chăn nuôi của đất nước.
“Là một trong những người được đi học
tập ở nước ngoài từ khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, còn rất
nghèo, được học tập và lĩnh hội những kiến thức chuyên sâu và kỹ thuật
tiên tiến, nếu những người như mình không làm chút gì đấy có ích cho xã
hội thì ai làm? Suy nghĩ đó vẫn theo tôi đến tận bây giờ”.
Hoàng Văn Minh
Nguồn: Báo Lao Động
Giải thưởng Kovalevskaia là
giải thưởng thường niên dành tặng cho những tập thể, cá nhân nữ khoa học
gia xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực tiễn cuộc
sống, đem lại nhiều lợi ích trên các lĩnh vực – kinh tế, xã hội và văn
hóa. Giải thưởng mang tên nhà nữ toán học gốc Nga, Kovalevskaya (1850 –
1891). Từ năm 1985, Giải thưởng Kovalevskaia bắt đầu đến với các nhà
khoa học nữ ở Việt Nam. Và đã có 48 cá nhân và 17 tập thể được trao giải
này.
PGS-TS Đinh Thị Bích Lân cũng nói rằng,
thành tựu chị đạt được hôm nay sẽ không có nếu không được gia đình, đặc
biệt là chồng chị – anh Phùng Thăng Long ủng hộ. “Với phụ nữ, gia đình
là rất quan trọng. Nếu chồng, con không vui, không ủng hộ thì sao mình
có thể tập trung cho nghiên cứu được. Vợ chồng tôi cùng ngành nghề, cùng
đam mê, cùng chí hướng nên anh ấy đã chia sẻ, giúp đỡ tôi rất nhiều ”.
|